ẢNH HƯỞNG
CỦA THUYẾT Piaget ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN
Piaget không đưa ra những khuyến nghị giáo
dục cụ thể mà ông quan tâm nhiều hơn đến việc hiểu được suy nghĩ của học sinh. Tuy
nhiên ông cũng trình bày một số ý tưởng chung về triết lý giáo dục. Ông tin
rằng mục tiêu chính của giáo dục phải là giúp học sinh học được cách học, và
giáo dục phải ‘hình thành chứ không trang bị’ tư udy của học sinh (Piaget,
1969, trang. 70). Mặc dù Piaget không thiết kế các chương trình giáo dục
dựa trên ý tưởng của mình, nhưng nhiều người khác thì lại thiết kế chương trình
dựa trên ý tưởng của ông. Ví dụ: Hiệp hội quốc gia về giáo dục học sinh (Mỹ) đưa
ra các hướng dẫn về giáo dục phù hợp với sự phát triển đã kết hợp các phát hiện
của Piaget và nhiều khung chương trình giảng dạy ở Úc và New Zealand sử dụng
nhiều phương pháp tiếp cận điều tra, kiến tạo tích cực, trong đó bao gồm cả các
kết quả liên quan đến độ tuổi hoặc giai đoạn. Piaget đã dạy chúng ta rằng chúng
ta có thể học được nhiều điều về cách suy nghĩ của học sinh bằng cách lắng nghe
và chú ý đến cách giải quyết vấn đề của các em. Nếu chúng ta hiểu được suy nghĩ
của học sinh, chúng ta sẽ có thể điều chỉnh phương pháp giảng dạy phù hợp hơn
với khả năng của học sinh.
Hiểu và xây dựng trên suy nghĩ của học sinh
Học sinh ở bất kỳ lớp
nào cũng sẽ có các trình độ nhận thức và kiến thức học thuật khác nhau. Là giáo
viên, các thầy cô sẽ làm thế nào để xác định là HS đang gặp khó khăn do các em
thiếu khả năng tư duy cần thiết hay chỉ đơn giản là do các em chưa được học về
những kiến thức cơ bản? Để làm được điều này, Case (1985; 1992) khuyến nghị các
thầy cô quan sát kỹ HS của mình khi các em đang cố gắng giải quyết vấn đề mà GV
đặt ra cho các em. Các em sử dụng loại logic gì? Các em có chỉ tập trung vào
một khía cạnh của tình huống hay không? Các em có bị đánh lừa bởi hình thức
không? Các em đưa ra các giải pháp một cách có hệ thống hay chỉ phỏng đoán và
quên đi những phương án các em đã thử? Hỏi HS của mình xem các em đã cố gắng
giải quyết vấn đề như thế nào. Lắng nghe các chiến lược của các em. Những kiểu
tư duy nào đằng sau những lỗi hoặc vấn đề bị lặp lại liên tục? Học sinh chính là
nguồn thông tin tốt nhất về khả năng tư duy của các em.
Một ảnh
hưởng quan trọng của lý thuyết của Piaget đối với việc giảng dạy là điều mà
Hunt nhiều năm trước (1961) gọi là "vấn đề của sự phù hợp". Học sinh
không được cảm thấy buồn chán bởi công việc quá đơn giản cũng như không bị tụt
hậu bởi cách dạy mà các em không thể hiểu được. Theo Hunt, sự mất cân bằng (không
tương xứng) phải được giữ ở mức "vừa phải" để khuyến khích sự phát
triển. Việc tạo ra các tình huống dẫn đến lỗi có thể giúp tạo ra một mức độ không
tương xứng phù hợp. Khi học sinh trải nghiệm một mâu thuẫn nào đó giữa những gì
mà các em nghĩ sẽ xảy ra (một miếng gỗ sẽ chìm vì nó lớn) và những gì thực sự
xảy ra (miếng gỗ đó nổi!), các em có thể suy nghĩ lại về tình huống và kiến
thức mới có thể phát triển.
Một điều nữa cũng cần được chỉ ra rằng nhiều tài liệu và
bài học có thể được hiểu ở nhiều mức độ khác nhau và có thể ở mức ‘vừa phải”
đối với nhiều khả năng nhận thức. Các tác phẩm kinh điển như Alice ở xứ sở thần
tiên, thần thoại và truyện cổ tích có thể được thưởng thức ở cả mức độ cụ thể
và mức độ biểu tượng. Các em cũng có thể được giới thiệu về một chủ đề cùng
nhau, sau đó làm việc riêng về các hoạt động tiếp theo phù hợp với trình độ của
các em. Good and Brophy (2003) mô tả các phiếu hoạt động cho ba hoặc bốn mức độ
năng lực. Các phiếu này cung cấp các bài đọc và bài tập khác nhau, nhưng tất cả
đều hướng tới mục tiêu chung của cả lớp. Một trong các phiếu phải "phù hợp"
với mỗi HS.
Hoạt động và kiến tạo kiến thức
Ý nghĩa cơ bản của thuyết Piaget là các cá
nhân tự kiến tạo sự hiểu biết của
riêng mình; học tập là một quá trình kiến tạo. Ở mọi cấp độ phát triển nhận
thức, các thầy cô cũng sẽ muốn thấy các em HS tích cực tham gia vào quá trình
học tập. Theo như ông nói, thì:
Kiến thức
không phải là bản sao của thực tại. Để biết một đối tượng, biết một sự kiện,
không chỉ đơn giản là nhìn vào nó và tạo ra một bản sao hoặc hình ảnh về nó. Biết
một đối tượng chính là hành động trên đối tượng đó. Biết chính là sửa đổi, biến
đổi đối tượng, và hiểu quá trình biến đổi này, và kết quả là hiểu cách đối
tượng được kiến tạo như thế nào. (Piaget, 1964, trang 8)
Hoạt động
trải nghiệm tích cực này, ngay cả ở những cấp học đầu tiên, không nên chỉ giới
hạn ở các thao tác vật lý với các đối tượng. Nó cũng phải bao gồm cả việc vận
dụng trí óc đối với các ý tưởng nảy sinh từ các dự án hoặc thí nghiệm trên lớp
(Gredler, 2009). Ví dụ: trong nội dung của một bài nói về các công việc khác
nhau, một giáo viên tiểu học có thể cho học sinh xem ảnh của một người phụ nữ
và hỏi, "Người này có thể là ai?". Sau những câu trả lời như ‘giáo
viên’, ‘bác sĩ’, ‘thư ký’, ‘luật sư’, ‘cô bán hàng’, v.v., giáo viên có thể gợi
ý, “Thế còn con gái thì sao?”. Những câu trả lời như "chị",
"mẹ", "dì" và "cháu gái" có thể sẽ được đưa ra.
Điều này sẽ giúp học sinh chuyển đổi các khía cạnh trong việc phân loại của các
em và tập trung vào một khía cạnh khác của tình huống. Tiếp theo, giáo viên có
thể gợi ý ‘là người Úc’ hoặc ‘người chạy bộ’. Với học sinh lớn hơn, việc phân
loại theo thứ bậc có thể được đưa vào: đó là hình ảnh của một người phụ nữ, một
con người; con người là một loài linh trưởng, là động vật có vú, là động vật,
là một dạng sinh vật sống.
Tất cả HS
cần phải tương tác với GV và với các bạn cùng lớp để kiểm tra khả năng tư duy,
để được thử thách, nhận phản hồi, và quan sát xem các bạn khác xử lý vấn đề như
thế nào. Sự mất cân bằng thường được phát triển một cách rất tự nhiên khi giáo
viên hoặc một bạn HS khác đề xuất một cách suy nghĩ mới về một điều gì đó. Theo
nguyên tắc chung, học sinh phải hành động, thao tác, quan sát, sau đó nói
chuyện và / hoặc viết (cho giáo viên và cho các bạn) về những gì các em đã trải
qua. Những kinh nghiệm cụ thể cung cấp nguyên liệu thô cho tư duy. Việc giao
tiếp với người khác khiến các em phải sử dụng, kiểm tra và đôi khi thay đổi khả
năng tư duy của mình.
Khi học sinh trưởng
thành, các em dần dần phát triển các quy tắc và chiến lược tốt hơn cho việc giải
quyết vấn đề và suy nghĩ logic và linh hoạt (Siegler, 2000, 2004). Giáo viên có
thể giúp học sinh phát triển năng lực tư duy chính thức bằng cách đặt học sinh
vào những tình huống thách thức tư duy của các em, bộc lộ những thiếu sót trong
logic của các em và thay đổi các quy tắc mà các em sử dụng để tư duy.
HƯỚNG DẪN
Với học sinh nhỏ tuổi
Sử dụng đạo cụ và dụng cụ trực quan bất cứ
khi nào có thể.
1. Khi thảo luận về các khái niệm như "một
phần", "toàn bộ" hoặc "một nửa", hãy sử dụng các hình
dạng trên bảng nỉ hoặc "bánh pizza" bằng bìa cứng để minh họa.
2. Cho học sinh làm phép cộng và trừ bằng các que
tính, viên đá hoặc mảnh gỗ màu.
Đưa ra các hướng dẫn ngắn gọn, sử dụng hành
động cũng như lời nói.
1. Khi đưa ra hướng dẫn về cách vào phòng học sau
giừo giải lao và chuẩn bị cho một hoạt động, hãy yêu cầu một học sinh thể hiện
quy trình cho các bạn khác trong lớp bằng cách bước vào nhẹ nhàng, đi thẳng về
chỗ ngồi và đặt các tài liệu trên bàn của mình.
2. Giải thích một trò chơi bằng cách diễn một
trong các vai.
Giúp học sinh phát triển năng lực quan sát
thế giới từ quan điểm của người khác.
1. Yêu cầu học sinh tưởng tượng bạn của mình có
thể cảm thấy như thế nào, khi các em từ chối chơi với bạn của mình, hoặc khi
bạn của mình bị mất một món đồ chơi mới.
2. Phải hiểu rõ về các quy tắc chia sẻ hoặc sử
dụng tài liệu. Giúp học sinh phát triển sự đồng cảm bằng cách yêu cầu các em suy
nghĩ về cách các em muốn được đối xử như thế nào. Tránh giải thích dài dòng về
lý do của các quy tắc hoặc lên lớp dài dòng về "lòng tốt ".
Cung cấp cho học sinh nhiều bài tập thực hành với các kỹ
năng đóng vai trò làm nền tảng phát triển các kỹ năng phức tạp hơn như đọc
hiểu.
1. Cung cấp các chữ cái cắt ra để ghép từ.
2. Đưa ra các hoạt động đòi hỏi xử lý đồ vật, đo
lường và tính toán đơn giản — nấu ăn, xây dựng khu vực trưng bày cho bài tập
của lớp, chia đều một mẻ bỏng ngô, v.v.
Cung cấp nhiều trải nghiệm khác nhau để xây dựng nền tảng
cho việc học khái niệm và ngôn ngữ.
1. Đi tham quan vườn thú, vườn bách thảo, nhà
hát, buổi hoà nhạc; mời người đến kể chuyện cho cả lớp.
2. Cho học sinh các từ để mô tả những gì các em đang
làm, nghe, nhìn, sờ, nếm, và ngửi.
DẠY CHO HỌC SINH LỚP 2 VÀ CAO HƠN
Tiếp tục sử dụng các đạo cụ và công cụ hỗ trợ trực quan,
đặc biệt là khi làm việc với các vấn đề phức tạp.
1. Sử dụng các dòng thời gian và hình ảnh minh
họa trong lịch sử, và các mô hình ba chiều trong khoa học.
2. Sử dụng các sơ đồ để minh họa các mối quan hệ
thứ bậc, chẳng hạn như các cấp chính quyền và các cơ quan dưới mỗi cấp.
Tiếp tục cho học sinh cơ hội để thao tác và kiểm
tra đối tượng.
1.
Làm các thí nghiệm khoa học đơn giản như sau về
mối quan hệ giữa lửa và oxi: Điều gì xảy ra với ngọn lửa khi em thổi vào ngọn
lửa từ xa? (Nếu ngọn lửa không bị thổi tắt, thì ngọn lửa sẽ bùng cháy to hơn
trong một thời gian ngắn, vì nó có nhiều oxy hơn để cháy.) Điều gì xảy ra khi em
chụp một cái lọ lên ngọn lửa?
2. Cho học sinh làm nến bằng cách nhúng bấc vào
sáp, dệt vải trên khung cửi đơn giản, nướng bánh mì, nặn bằng tay hoặc làm các
công việc thủ công khác minh họa nghề nghiệp hàng ngày của người dân thời thuộc
địa.
Đảm bảo rằng các bài thuyết trình và bài đọc
ngắn gọn và có bố cục tốt.
1. Giao bài tập bằng các câu chuyện hoặc sách có
các chương ngắn, logic, chỉ chuyển sang các bài tập đọc dài hơn khi học sinh đã
sẵn sàng.
2. Chia nhỏ bài thuyết trình để thực hành các
bước đầu tiên trước khi giới thiệu phần tiếp theo.
Sử dụng các ví dụ quen thuộc để giải thích
các ý tưởng phức tạp
1. So sánh cuộc sống của học sinh với cuộc sống
của các nhân vật trong truyện. Hỏi những câu hỏi liên quan, như: ‘Em đã bao giờ
phải ở một mình trong thời gian dài chưa? Em cảm thấy thế nào?'
2. Dạy khái niệm về diện tích bằng cách cho học
sinh đo hai phòng học trong trường có kích thước khác nhau.
Tạo cơ hội để phân loại và nhóm các đối tượng và ý tưởng với
mức độ phức tạp tăng dần.
1. Phát cho các học sinh tờ giấy có ghi các câu
riêng lẻ trên mỗi phiếu và yêu cầu các em gộp các câu lại thành đoạn văn.
2. So sánh các hệ thống của cơ thể con người với
các loại hệ thống khác: não với máy tính, tim với máy bơm. Chia nhỏ câu chuyện
thành các phần, từ khái quát đến cụ thể: tác giả; câu chuyện; nhân vật, cốt
truyện, chủ đề; địa điểm, thời gian; đối thoại, miêu tả, hành động.
Trình bày những vấn đề đòi hỏi tư duy logic,
phân tích.
1.
Sử dụng các trò chơi trí óc, MasterMind và câu đố.
2. Thảo luận về những câu
hỏi gợi mở kích thích tư duy: ‘Bộ não và trí óc có giống nhau không?’, ‘Hội
đồng địa phương nên giải quyết thế nào với những con vật đi lạc?’, ‘Con số lớn
nhất là bao nhiêu?’.
Cho học sinh cơ hội để giải quyết vấn đề và
suy luận một cách khoa học.
1. Lập các cuộc thảo luận nhóm trong đó HS thiết kế các thí nghiệm để
trả lời câu hỏi.
2. Yêu cầu HS chứng minh hai lập trường khác
nhau về quyền động vật, với các lập luận logic cho mỗi lập trường.
Bất cứ khi nào có thể, hãy dạy các khái niệm tổng quát, chứ
không chỉ sự kiện, bằng cách sử dụng các tư liệu và ý tưởng liên quan đến cuộc
sống của HS.
1. Khi thảo luận về thiên tai, hãy xem xét các vấn đề khác có tác động
đến khả năng phục hồi của cộng đồng địa phương.
2. Sử dụng lời bài hát phổ biến để dạy thơ
ca, phản ánh các vấn đề xã hội và kích thích thảo luận về vị trí của âm nhạc
đại chúng trong nền văn hóa của chúng ta.