- NL nói bao gồm các thành tố: phát âm và âm lượng đủ, thái độ tôn trọng người nghe, nói thành đoạn hoặc bài ngắn theo chủ đề
- NL nghe bao gồm các thành tố: thái độ tôn trọng người nói, nghe chính xác để hiểu (nhắc lại điều đã nghe) phản hồi về điều đã nghe (nêu nêu nhận xét, cảm nhận của cá nhân về điều đã nghe)
- NL nghe nói tương tác bao gồm các thành tố: nói theo lượt lời, hiểu và tôn trọng ý kiến người nói, phát biểu ý kiến tích cực để duy trì sự trao đổi, thảo luận. (Xem CT môn Ngữ văn, 2018)
Cơ sở để lựa chọn PPDH và kĩ thuật dạy nói và nghe là :
- Đặc điểm của nội dung học nói, nghe độc lập (nói và nghe ít tương tác)
- Đặc điểm của nội dung học nói - nghe tương tác trực tiếp Học nói và học nghe là học kĩ năng giao tiếp trực tiếp bằng ngôn ngữ. Khi giao tiếp trực tiếp thì môi trường giao tiếp đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định chất lượng giao tiếp. Do đó học nói và học nghe cần phải được tổ chức trong môi trường giao tiếp thân thiện, có sự tôn trọng lẫn nhau giữa người nói và người nghe. Để làm được việc tạo dựng môi trường giao tiếp, GV cần chọn các kĩ thuật dạy học như tạo tình huống có vấn đề để HS gia nhập cuộc giao tiếp một cách tự nhiên. GV cần chọn PP khích lệ người nghe phản hồi ý kiến người nói trình bày, PP khích lệ người nói giao lưu với người nghe qua việc trao đổi lại với người nghe một vài ý kiến. Trong dạy nói – nghe tương tác trực tiếp, GV cần chọn PP tổ chức cho HS đối thoại (2 nhân vật hội thoại), hội thoại giữa nhiều nhân vật cùng hướng về một mục đích …
Mức độ phức tập của nội dung nói, nghe, nói – nghe tương tác trực tiếp cần dựa trên yêu cầu cần đạt về nói và nghe ở từng lớp nêu trong chương trình môn Tiếng Việt.
Điểm mới trong PPDH nói và nghe theo CT mới gồm:
(1) GV tổ chức môi trường thân thiện để HS được tự tin trình bày ý kiến cá nhân trong học tập ở nhóm và lớp;
(2) Trong dạy cá nhân HS phát biểu ý kiến hoặc thuyết trình một vấn đề, GV cần tập trung chỉ dẫn cho HS các bước để nói:
- Chuẩn bị nội dung nói.
- Thực hành nói với sự điều chỉnh về độ to và ngữ điệu.
- Dùng điệu bộ và nét mặt để hỗ trợ lời nói GV cần hướng dẫn HS biết xác định chủ đề và mục tiêu nói; biết cách nói rõ ràng, mạch lạc, giúp người nghe dễ nắm bắt được nội dung; biết điều chỉnh âm lượng và ngữ điệu; biết cách sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ (điệu bộ, nét mặt) và phương tiện nghe nhìn (sơ đồ, biểu bảng, tranh, máy chiếu) hỗ trợ trong khi nói, trình bày.
(3) Trong dạy nghe, GV cần tổ chức cho HS nghe hiểu trong khi nghe GV, nghe bạn thuyết trình hoặc phát biểu ý kiến, cụ thể là:
- Học cách nắm bắt được nội dung do người khác nói hay độ chính xác của nội dung nghe được thông qua hoạt động ghi lại ý chính, tóm tắt nội dung nghe, nêu câu hỏi để kiểm tra lại thông tin nghe chưa rõ.
Ví dụ: Khi HS trình bày về cách uống thuốc, GV có thể yêu cầu HS nêu câu hỏi để kiểm tra thông tin bạn trình bày đã đủ chưa: Khi uống thuốc xong là kết thúc việc uống thuốc à? Trả lời câu hỏi này, người nói sẽ hiểu bạn nói chưa đủ thông tin (vì uống thuốc xong phải theo dõi xem cơ thể có biểu hiện gì khác thường, nếu có phải ngừng uống và thông báo cho bác sĩ).
- Học cách hiểu và cách đánh giá quan điểm, ý định của người nói thông qua hoạt động phản hồi tích cực: nêu những ý kiến tốt người nói đã trình bày; đề nghị người nói giải thích một số thông tin mà mình chưa đồng tình hay còn băn khoăn dưới dạng câu hỏi để người nói có cơ hội giải thích, trình bày lại; đưa ra một số khuyến nghị để người nói tham khảo và hoàn chỉnh ý kiến của họ đồng thời tỏ thái độ tôn trọng người nói, không áp đặt họ phải làm theo ý mình. Dạy hoạt động phản hồi tích cực thực chất là dạy HS cách ứng xử có văn hóa khi nhận xét về ý kiến của người khác, dạy HS tôn trọng sự khác biệt và dạy HS cách hợp tác để giải quyết vấn đề. Hoạt động phản hồi tích cực là một biểu hiện quan trọng của NL ngôn ngữ, NL giao tiếp và hợp tác mà HS của chúng ta lâu nay ít được học.
(4) Trong dạy nói và nghe tương tác:
- GV hướng dẫn HS lắng nghe và biết đặt câu hỏi để hiểu nội dung nghe, biết nói theo lượt lời trong hội thoại, biết dùng phương tiện nghe nhìn (tranh ảnh, biểu bảng, máy chiếu) để hỗ trợ cho lời trình bày miệng.
(5) GV cần tổ chức cho HS trình bày ý kiến bằng thuyết trình tích cực, thảo luận, tranh luận để qua đó học cách nắm bắt được nội dung do người khác nói.
- Trong lúc HS thảo luận, tranh luận, GV cần nêu các tình huống để dẫn dắt HS thảo luận, tranh luận đúng hướng và hợp tác với nhau, tránh tình trạng tranh luận không có hồi kết, ít có ích lợi.
Ví dụ: khi trình bày về kết quả hoạt động của tổ trong tuần vừa qua, HS có thể dùng biểu đồ cột để trình bày kết quả học tập của cả tổ tuần vừa qua so với kết quả của tuần trước đó.
Ví dụ: khi cho HS nêu ý kiến về ích lợi của việc đọc sách, GV gợi ý HS nêu ích lợi của một số quyển sách đối với cá nhân mình. GV tổ chức cho những HS khác được nêu câu hỏi về cuốn sách bạn vừa trình bày để qua đó HS được thảo luận về một cuốn sách đồng thời hiểu được nội dung ý kiến của bạn trình bày. Chẳng hạn GV khuyến khích HS đặt các câu hỏi có dạng như : Trong cuốn Mười vạn câu hỏi vì sao? có những câu hỏi về mặt trăng không? Hoặc : Câu hỏi nào trong sách bạn thích nhất? Câu hỏi đó cho bạn biết thêm điều gì mới ? …
Ví dụ: Khi cho HS tranh luận xem tiết kiệm nước khi tắm là đúng hay sai, HS có thể sẽ có ý chê bạn tiết kiệm là ở bẩn. Trong trường hợp đó GV cần nêu câu hỏi dẫn dắt cuộc tranh luận trở về mục tiêu bằng cách: Dùng nước trong khi tắm theo cách nào là tiết kiệm:
a) Lấy nước ra chậu rồi dội lên người;
b) Cho vòi nước chảy xối nước trực tiếp lên người?