- Kĩ thuật đọc gồm có: đọc đúng, đọc trơn, tốc độ đọc, đọc thầm, đọc diễn cảm, đọc sách và ghi chép
- Đọc hiểu gồm có: hiểu nội dung (nhận biết các chi tiết, ý chính, chủ đề); hiểu hình thức biểu đạt (nghĩa của ngôn từ, hình ảnh, hành động, biện pháp tu từ, thái độ, tình cảm của nhân vật và của tác giả); liên hệ so sánh ngoài văn bản (liên hệ văn bản với kinh nghiệm bản thân để rút ra bài học, liên hệ để thấy sự giống và khác nhau giữa những văn bản cùng chủ đề) (Xem văn bản CT môn Ngữ văn, 2018)
Phần lớn các phương pháp dạy học truyền thống và hiện hành đều được kế thừa trong dạy đọc ở môn Tiếng Việt với một tinh thần và định hướng mới. Đó là vận dụng linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh và đều tập trung hình thành, phát triển NL ngôn ngữ và NL văn học của HS.
Điểm nổi bật của phương pháp dạy đọc là căn cứ trên lý thuyết tiếp nhận ngôn ngữ và lí thuyết tiếp nhận văn học, GV tổ chức cho HS các hoạt động đọc tích cực, bao gồm: tự đọc dưới sự hướng dẫn của GV để tương tác với tác giả và kiến tạo ý nghĩa của văn bản. CT Ngữ văn mới đặc biệt chú trọng đến việc đọc rộng của HS. Thực chất của điểm mới này là GV tổ chức cho HS tự đọc ở trường (đọc sách ở tủ sách dùng chung của lớp, ở thư viện của trường), tự đọc ở ngoài trường (đọc ở nhà, đọc sách ở các câu lạc bộ trong cộng đồng dân cư, trong các ngày hội sách,…). Việc đọc này được GV và cha mẹ HS khuyến khích, tạo điều kiện và hướng dẫn thông qua chỉ dẫn cho các em ghi chép những điều đọc được, chia sẻ những điều đọc được cho bạn bè, người thân,…
Dựa vào các yêu cầu của kĩ năng trong CT môn Tiếng Việt, có thể thấy trong dạy kĩ năng đọc, GV cần nắm được một số phương pháp, kĩ thuật dạy học ở 2 nhóm sau:
- Phương pháp dạy kĩ thuật đọc (đọc thành tiếng)
- Phương pháp dạy đọc hiểu cho 2 kiểu loại văn bản văn học, văn bản thông tin.
Cơ sở để chọn PPDH và kĩ thuật dạy học dùng trong dạy đọc là :
- Đặc điểm của đọc thành tiếng và đọc hiểu
- Yêu cầu cần đạt về đọc thành tiếng và đọc hiểu nêu trong chương trình.
Đọc thành tiếng là kĩ năng đọc cơ bản, yêu cầu của đọc thành tiếng là : phát âm đủ to, đọc đúng, biết ngắt nghỉ hơi, đảm bảo tốc độ. HS có đạt yêu cầu đọc thành tiếng mới có điều kiện để đọc hiểu. Việc học đọc thành tiếng dễ bị nhàm chán nếu yêu cầu về hoạt động lặp đi lặp lại liên tục. Việc này cũng dễ bị HS học không tự giác do cứ bắt chước nhau mà không nhìn vào chữ. Do đó GV cần sử dụng linh hoạt các PP và kĩ thuật DH để tránh nhàm chán, chống đọc vẹt. Các PP và kĩ thuật DH cần hướng vào từng cá nhân HS đọc, từng nhóm HS đọc. Học đọc không chỉ gồm luyện theo mẫu mà đọc trong các trò chơi, cuộc thi trong đó cá nhân nào cũng được tham gia đọc. Khi giao nhiệm vụ đọc thành tiếng cho cá nhân, Gv cần chú ý đến việc dạy học phân hóa theo đối tượng. Có những HS đọc trơn câu chưa tốt, GV có thể yêu cầu HS đọc trơn 1-2 câu để hướng dẫn các em đọc đúng, ngắt nghỉ hơi đúng. Với những HS đọc trơn tốt hơn, GV có thể yêu cầu HS đọc đoạn văn (ở lớp 1, 2, 3), đọc cả bài văn (ở lớp 4, 5), yêu cầu HS thay đổi giọng đọc để phân biệt lời kể và lời nhân vật trong bài.
Đọc hiểu là kĩ năng thể hiện mục tiêu của hoạt động đọc. Đọc hiểu là kĩ năng liên quan nhiều đến tư duy, nhận thức. Việc đọc văn bản có hứng thú với HS hay không chính là nhờ vào việc tổ chức hoạt động đọc hiểu. Khác với đọc thành tiếng hay dùng PP rèn luyện theo mẫu, đọc hiểu cần tập trung dùng các PP và kĩ thuật kích thích hoạt động tư duy, hoạt động tích cực nhận thức của HS. Những câu hỏi gợi mở để HS khám phá nội dung và hình thức của văn bản, những yêu cầu trao đổi để thảo luận hoặc tranh luận về một vấn đề nảy sinh từ văn bản, những tình huống GV nêu ra để HS sử dụng kiến thức từ văn bản để giải quyết tình huống là những PPDH và kĩ thuật DH phù hợp nhiều hơn vớ dạy đọc hiểu. Mức độ khó của từng hoạt động đọc cần dựa trên yêu cầu cần đạt về đọc hiểu ở từng lớp nêu trong chương trình môn Tiếng Việt.
1. Phương pháp dạy đọc thành tiếng (chung cho văn bản văn học và văn bản thông tin)
Dạy đọc thành tiếng có 2 giai đoạn : giai đoạn đầu dạy đọc từng tiếng là giai đoạn thường gọi là học vần (học đọc chữ cái, đọc vần, ghép tiếng và đọc trơn tiếng, từ), giai đoạn đọc thành tiếng và đọc diễn cảm đoạn văn, văn bản trọn vẹn.
Ở giai đoạn học vần, GV cần sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu.
Phương pháp này dùng ở cả 3 loại hoạt động trong bài học vần: khám phá, luyện tập, vận dụng. Để HS đọc đúng theo mẫu, GV cần tạo ra mẫu đúng bằng cách phát âm đúng các chữ, vần, tiếng, từ, câu, đoạn văn có trong bài. Bên cạnh phương pháp này, GV nên dùng các kĩ thuật như đọc truyền điện, thi tiếp sức đọc chữ, vần, tiếng mới, tổ chức trò chơi để mỗi HS bắt thăm đọc các chữ, vần, tiếng và từ mới.
Ví dụ: Sau khi học khám phá cấu tạo và cách đọc đúng đọc các vần vần iêu, yêu, ươu, GV có thể cho HS bắt thăm (từ 1 đến 6) để ghép các tiếng chứa những vần trên. HS có thể được bắt thăm nhiều lần để được ghép nhiều tiếng. GV cũng có thể để cho mỗi nhóm HS truyền điện ghép từng tiếng.
Ở giai đoạn đọc trơn đoạn văn, văn bản, GV vẫn cần sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu, phương pháp học theo nhóm, phương pháp tổ chức trò chơi đọc (đọc truyền điện, bắt thăm đọc đoạn), cuộc thi đọc từng đoạn của văn bản.
Mẫu mà GV tạo ra ở giai đoạn này phải đảm bảo các yêu cầu: đọc to đủ âm lượng, phát âm đúng, ngắt nghỉ hơi đúng. GV chỉ nên cho HS đọc đồng thanh ở những yêu cầu luyện phát âm đúng các từ khó hoặc dễ lẫn khi phát âm. Với yêu cầu đọc câu dài, GV cần làm mẫu (đọc ngắt hơi, viết ra bảng phụ câu có những đánh dấu chỗ ngắt nghỉ hơi) một số câu điển hình trong đoạn, bài. Với yêu cầu đọc cả văn bản cần cho HS đọc tiếp nối từng đoạn trước khi đọc cả văn bản. Từ lớp 3 đến lớp 5 trong yêu cầu về đọc thành tiếng có những yêu cầu về đọc diễn cảm. Việc đọc diễn cảm không chỉ thể hiện khả năng đọc thành tiếng mà còn thể hiện khả năng hiểu văn bản của HS. Do đó, khi cho HS đọc diễn cảm, GV cần dùng kĩ thuật đặt câu hỏi để gợi dẫn cho HS hiểu ý nghĩa của đoạn văn từ đó mới chọn những điểm thay đổi giọng đọc hay nhấn giọng ở những từ ngữ trong bài để tăng sức gợi cảm của văn bản. Có thể dùng các kĩ thuật tổ chức cuộc thi đọc diễn cảm đoạn văn, đọc phân vai, ngâm thơ để khuyến khích HS đọc diễn cảm theo cách cảm thụ của cá nhân, tăng sự hứng thú của mỗi em trong học đọc.
Ví dụ: cho HS đọc phân vai trong nhóm đoạn đầu của bài Ga-rốt ngoài chiến lũy (SGK Tiếng Việt 4 tập 2 hiện hành). trước khi đọc, GV cho HS đọc thầm đoạn văn, xác định các vai cần đọc, nêu giọng đọc mỗi em chọn cho vai của mình để thể hiện lời kể, tính cách của từng nhân vật.
- Vai Ăng-giôn-ra giọng nói giõng dạc
- Vai Cuốc-phây-rắc giọng nghiêm nghị, ra lệnh
- Vai Ga-rốt giọng vui vẻ, pha chút ngây thơ hồn nhiên
- Vai người kể chuyện giọng kể trầm hơn giọng các nhân vật.
Sau khi HS tập đọc phân vai trong nhóm, GV cho 2 nhóm thi đọc phân vai rồi cho các HS khác nhận xét kết quả đọc của mỗi nhóm
2. Phương pháp dạy đọc hiểu
Trong PPDH đọc hiểu trước hết GV cần nắm được những yêu cầu chung về dạy đọc hiểu một văn bản. Tiếp đến cần chú ý những yêu cầu gắn với đặc trưng thể loại hoặc kiểu văn bản. Đầu tiên là các nhóm văn bản lớn như: dạy đọc hiểu văn bản văn học; dạy đọc hiểu văn bản thông tin. Trong mỗi nhóm văn bản lớn lại có những thể loại, kiểu loại nhỏ; chẳng hạn với văn bản văn học ở cấp tiểu học có ít nhất 3 thể loại chi phối cách dạy đọc hiểu: Truyện; Thơ; Kịch bản văn học.
Tóm lại, việc xác định phương pháp dạy học đọc hiểu cần kết hợp nhiều phương diện: từ yêu cầu đọc hiểu văn bản nói chung đến các đặc trưng riêng về thể loại, tiểu loại và kiểu văn bản, đặc điểm về nhận thức và hứng thú của HS tiểu học.
Yêu cầu chung về PPDH đọc hiểu văn bản:
– Cho HS đọc trực tiếp văn bản, quan sát các yếu tố hình thức của văn bản: câu, chữ, tiêu đề, bố cục, chi tiết, nhân vật, sự kiện,... từ đó có ấn tượng chung về văn bản; tóm tắt được nội dung chính của văn bản.
– Cho học sinh tìm kiếm, phát hiện, phân tích, suy luận ý nghĩa các thông tin, chi tiết, quan điểm, thái độ, tình cảm,... được gửi gắm trong nhân vật, sự kiện ở văn bản.
– Hướng dẫn học sinh liên hệ, so sánh giữa các văn bản; kết nối văn bản với trải nghiệm của chính mình để từ đó hiểu sâu hơn giá trị của văn bản; biết vận dụng, chuyển hoá những giá trị ấy thành lối sống, cách ứng xử của cá nhân trong đời sống.
Những phương pháp và kĩ thuật dạy học dùng để dạy đọc hiểu một văn bản nói chung ở cấp tiểu học gồm:
(1) Nói lại (kể lại) chi tiết, thông tin quan trọng trong bài.
Ví dụ: khi HS đọc bài Quạ có thông minh hay không?11, có yêu cầu HS Kể một việc làm của loài quạ trong bài mà em thích.
(2) Dùng kĩ thuật đặt câu hỏi: GV đặt câu hỏi để HS biết đặt câu hỏi vào những chi tiết, thông tin quan trong trong bài.
Ví dụ: Em hãy hỏi bạn câu hỏi gì để biết lí do khiến bạn Nam khóc? 12(Vì sao bạn Nam khóc? – Trả lời : Bạn Nam khóc vì bị bác bảo vệ giữ chặt chân khi đang lách qua lỗ thủng trốn ra ngoài trường).
(3) Lập sơ đồ tư duy để tóm tắt văn bản
(4) Nêu ý kiến nhận xét, nhận định về một chi tiết quan trọng trong bài hoặc nêu những điều mới học được trong bài. Ví dụ: Chi tiết ông Trần Đại Nghĩa rời bỏ cuộc sống sung sướng nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc về nước cho em nhận xét gì về tinh thần của ông đối với đất nước? (tinh thần yêu nước)
(5) Viết đoạn tóm tắt văn bản thông tin. Ví dụ: Tóm tắt hành trình của hạm đội do Ma-gien-lăng chỉ huy đi vòng quanh trái đất.
(6) Dùng kĩ thuật đọc tích cực để khám phá văn bản (chúng em biết 3, trình bày 1 phút). Ví dụ: Trước khi đọc bài Ăng-co Vát, GV yêu cầu mỗi HS nêu 3 điều em biết về Ăng-co Vát
(7) Dùng kĩ thuật KWL để chỉ dẫn HS khám phá văn bản trước khi học trên lớp, sau khi học trên lớp hoặc khám phá những văn bản các em tự đọc theo hứng thú của cá nhân.
(8) Dùng kĩ thuật giải quyết tình huống (để thực hiện yêu cầu vận dụng nội dung văn bản vào giải quyết vấn đề trong thực tiễn). Ví dụ: Sau khi học đọc bài Ăn mầm đá, GV có thể cho HS liên hệ với một số tình huống ăn và chọn tình huống em cho là ăn ngon miệng nhất, qua đó giáo dục cho các em bài học: ăn ngon không nhất thiết là phải ăn món ngon mà là cần ăn đúng lúc cơ thể cần ăn.
Theo em, khi nào em ăn thấy ngon miệng hơn cả?
- Khi em được ăn thức ăn ngon
- Khi em được ăn thức ăn đắt tiền
- Khi em được ăn thức ăn bình thường vào đúng lúc em đang đói
Yêu cầu về PPDH đọc hiểu văn bản văn học: Văn bản văn học trước hết là một văn bản ngôn từ vì thế cũng cần tuân thủ cách đọc một văn bản nói chung nêu trên. Tuy nhiên, văn bản văn học có những đặc điểm riêng như: là sản phẩm của tưởng tượng, sáng tạo; là mô hình cuộc sống được thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật, phản ánh cách nhìn và thái độ của người viết; văn bản văn học được sáng tạo bằng hệ thống kí hiệu ngôn từ, nhưng ý nghĩa của nó rất phong phú do nhiều yếu tố khác nhau trong đó có vai trò của người đọc; ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ lạ hoá; cấu trúc văn bản văn học là một cấu trúc mở, có nhiều khoảng trống về nghĩa,... Do những đặc trưng đó của văn bản văn học, khi dạy học đọc hiểu, giáo viên cần lựa chọn một số trong số những phương pháp và kĩ thuật dạy học sau sao cho phù hợp với văn bản ở từng bài:
(1) Đóng vai nói về chi tiết thuộc từng vai (với văn bản truyện, kịch bản văn học). Ví dụ: Khi đọc bài Gửi lời chào lớp 1, GV cho từng HS đóng vai một bạn học sinh lớp 1, nói lời chào từ biệt đối với các đồ vật thân quen trong lớp, lời chào từ biệt cô giáo lớp 1 của em.
(2) Tổ chức trò chơi, cuộc thi (đóng vai, kể chuyện). Ví dụ: Khi dạy đọc bài Cậu bé nói dối, GV có thể yêu cầu HS thi đóng vai nói điều cậu bé suy nghĩ khi thấy đàn cừu bị chó sói ăn thịt
(3) Kể lại câu chuyện (với đọc văn bản truyện)
(4) Thảo luận, tranh luận về ý nghĩa của một số chi tiết quan trọng (để phát tư duy phản biện, tư duy hình tượng). Ví dụ: Khi dạy bài đọc Bữa ăn trong ngày, GV có thể đưa ra một tình huống để HS tranh luận:
- Bạn Lan cho rằng phải chọn nhiều thức ăn cho bữa trưa vì bạn đã mệt do phải làm việc buổi sáng rồi lại phải làm việc buổi chiếu nên cần ăn đủ để có sức
- Bạn Hồng cho rằng phải chọn nhiều thức ăn cho bữa tối vì từ bữa ăn tối đến bữa ăn sáng cách rất nhiều giờ nên bạn dễ bị đói.
Mỗi HS sẽ nêu ý kiến nào đúng, vì sao lại đúng.
(5) Đọc thuộc hoặc ngâm thơ (với văn bản là thơ), đọc diễn cảm (văn bản truyện, thuyết minh)
(6) Viết lại câu chuyện hoặc viết một đoạn tóm tắt câu chuyện. Ví dụ: viết đoạn tóm tắt câu chuyện Ai ngoan sẽ được thưởng theo gợi ý sau
- Những việc làm của Bác khi đến thăm các cháu ở trại nhi đồng
- Ý kiến của các bạn về việc Bác chia kẹo
- Việc Bạn Tộ được nhận kẹo (7) Dùng kĩ thuật đọc tích cực để khám phá văn bản (chúng em biết 3, trình bày 1 phút)
(8) Dùng kĩ thuật KWL để chỉ dẫn HS khám phá văn bản trước khi học trên lớp, sau khi học trên lớp hoặc khám phá những văn bản các em tự đọc theo hứng thú của cá nhân.
(9) Dùng kĩ thuật đặt câu hỏi
(10) Dùng kĩ thuật giải quyết tình huống (để thực hiện yêu cầu vận dụng nội dung văn bản vào giải quyết vấn đề trong thực tiễn).
Cần lưu ý, dù GV lựa chọn PP hoặc kĩ thuật nào thì điều quan trọng là GV cần dạy HS cách sử dụng chúng và tổ chức cho HS thực hành nhiều lần PP hoặc kĩ thuật đã học.