Các quan điểm cơ bản về dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh tiểu học

 
a) Phát huy tính tích cực của người học

Để đáp ứng yêu cầu phát triển PC và NL, giáo viên cần chú ý hình thành cho HS cách học, phương pháp tiếp nhận và tạo lập văn bản; thực hành, luyện tập và vận dụng nhiều kiểu văn bản khác nhau để đặt nền móng cho HS có khả năng tiếp tục học suốt đời và có khả năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giáo viên là tổ chức các hoạt động học tập cho HS; hướng dẫn, giám sát và hỗ trợ HS để các em từng bước hình thành và phát triển các PC và NL mà CT giáo dục mong đợi.

Giáo viên cần khơi gợi, vận dụng kinh nghiệm và vốn hiểu biết đã có của HS về vấn đề đang học, từ đó tổ chức cho các em tìm hiểu, khám phá để tự mình bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện những hiểu biết ấy. Cần khuyến khích HS trao đổi và tranh luận, đặt câu hỏi cho mình và cho người khác khi đọc, viết, nói và nghe..

b) Dạy học tích hợp và phân hoá

Dạy học tích hợp đòi hỏi giáo viên Ngữ văn trước hết phải thấy được mối liên hệ nội môn (đọc, viết, nói và nghe), theo đó nội dung dạy đọc có liên quan và lặp lại ở các nội dung dạy viết, nói và nghe; kiến thức và kĩ năng đọc hiểu mà HS tích luỹ được trong quá trình tiếp nhận văn bản thuộc các kiểu loại khác nhau sẽ giúp cho kĩ năng viết, nói và nghe tốt hơn. Những kiến thức và cách thức diễn đạt HS học được trong quá trình đọc sẽ được dùng để thực hành viết. Tương tự, những điều học được khi đọc và viết sẽ được HS dùng khi nói. Cùng với yêu cầu tích hợp nội môn, trong khi dạy đọc, viết, nói và nghe, giáo viên còn phải biết tận dụng các cơ hội để lồng ghép một cách nhuần nhuyễn, hợp lí vào giờ học các yêu cầu giáo dục liên môn (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Nghệ thuật) và những nội dung giáo dục ưu tiên xuyên suốt toàn CT GDPT (chủ quyền quốc gia, hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hoá, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, quyền con người, quyền trẻ em, bình đẳng giới, giáo dục tài chính,...).

Dạy học phân hoá nhằm đáp ứng phát triển NL cho những HS có trình độ khác nhau về tiếng Việt. Để dạy học phân hóa, khi chuẩn bị kế hoạch bài học, GV cần xác định hoạt động nào nên dành cho HS khá giỏi, hoạt động nào dành cho các HS ở trình độ trung bình, hoạt động nào dành cho HS có trình độ dưới mức trung bình.

Ví dụ: trong hoạt động đọc hiểu ở lớp 2, 3, GV dành những yêu cầu tái hiện chi tiết quan trọng trong bài bằng cách yêu cầu HS trả lời những câu hỏi Ai? Cái gì? Làm gì? Ở đâu? Khi nào? cho HS có trình độ dưới trung bình. GV dành những yêu cầu giải thích đơn giản cho một sự việc, chi tiết trong bài bằng cách yêu cầu HS trả lời câu hỏi Vì sao? cho HS có trình độ trung bình. GV dành những yêu cầu liên hệ văn bản với kinh nghiệm của bản thân để rút ra bài học từ văn bản dành cho HS có trình độ khá giỏi.

Dạy học phân hoá có thể thực hiện bằng nhiều cách: nêu các câu hỏi, bài tập theo nhiều mức độ khác nhau; yêu cầu tất cả mọi HS đều làm việc và lựa chọn vấn đề phù hợp với mình; động viên và khen ngợi kịp thời các HS có ý tưởng sáng tạo, mới mẻ, độc đáo trong đọc, viết, nói và nghe..

c) Đa dạng hoá các phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện dạy học

Trong quá trình dạy học, giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học như tổ chức cho HS học cá nhân, học theo nhóm, học chung cả lớp, học trong lớp học và ngoài lớp học (thư viện, sân trường, nhà bảo tàng, khu triển lãm,...). Có thể cho HS đi tham quan, dã ngoại, yêu cầu các em ghi chép, chụp hình, … những gì quan sát, trải nghiệm và viết báo cáo, thực hiện dự án,…

Về PPDH và GD, giáo viên cần tránh máy móc rập khuôn, không tuyệt đối hoá một phương pháp trong dạy đọc, viết hay nói và nghe mà biết vận dụng các phương pháp phù hợp với đối tượng, bối cảnh, nội dung và mục đích của giờ học.

Kết hợp diễn giảng ngắn với nêu câu hỏi, cho HS thảo luận, trình bày, sử dụng các trò chơi ngôn ngữ phù hợp với HS tiểu học; hướng dẫn HS cách dùng sơ đồ để thể hiện các ý tưởng, nhất là khi tóm tắt nội dung văn bản, trình bày các thao tác thực hiện một công việc ...; khuyến khích HS tự tìm đọc, biết cách thu thập, chọn lọc tài liệu trong thư viện và trên Internet để thực hiện các nhiệm vụ cá nhân hay nhiệm vụ nhóm được giao, sau đó trình bày kết quả nghiên cứu trước lớp; rèn luyện kĩ năng sử dụng các phương tiện nghe nhìn (tranh ảnh, sơ đồ, biểu bảng, máy chiếu …) để hỗ trợ cho việc trình bày. Tổ chức các hoạt động dạy học sao cho khi kết thúc cấp học, HS đạt được các yêu cầu cần đạt mà CT đã đề ra.

Về phương tiện dạy học, giáo viên cần sử dụng các phương tiện trực quan như tranh ảnh, mẫu vật để giúp HS hiểu rõ đối tượng được miêu tả trong văn bản (ví dụ hình ảnh miếng trầu têm cánh phượng trong truyện Tấm Cám ; dùng sơ đồ để phát triển kĩ năng so sánh, phân tích cho HS; sử dụng băng hình, các bộ phim một cách hợp lí để HS học sinh được học một cách hứng thú. Tuy nhiên, cần tránh lạm dụng hình ảnh vì chất liệu của môn học Tiếng Việt là ngôn từ, tạo khả năng khơi gợi NL tưởng tượng của HS.

d) Định hướng về phương pháp dạy học và giáo dục trong CT GDPT

CT GDPTTT đã đưa ra những định hướng cơ bản về PPDH và GD dùng chung cho các môn học. Những định hướng đó là:

Các môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường áp dụng các phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện NL, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kĩ năng đã tích lũy được để phát triển.

Các hoạt động học tập của học sinh bao gồm hoạt động khám phá vấn đề, hoạt động luyện tập và hoạt động thực hành (ứng dụng những điều đã học để phát hiện và giải quyết những vấn đề có thực trong đời sống), được thực hiện với sự hỗ trợ của Thiết bị dạy học tối thiểu, đồ dùng học tập và công cụ khác, đặc biệt là công cụ tin học và các hệ thống tự động hóa của kĩ thuật số. Các hoạt động học tập nói trên được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường thông qua một số hình thức chủ yếu sau: học lý thuyết; thực hiện bài tập, thí nghiệm, trò chơi, đóng vai, dự án nghiên cứu; tham gia xêmina, tham quan, cắm trại, đọc sách; sinh hoạt tập thể, hoạt động phục vụ cộng đồng.

Tùy theo mục tiêu cụ thể và tính chất của hoạt động, học sinh được tổ chức làm việc độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp. Tuy nhiên, dù làm việc độc lập, theo nhóm hay theo đơn vị lớp, mỗi học sinh đều phải được tạo điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm thực tế.

Môn Tiếng Việt cần lựa chọn những PPDH và GD chung, những PPDH và GD phù hợp với đặc trưng của môn học, lứa tuổi học sinh từ 6-11 tuổi để đảm bảo thực hiện các định hướng nói trên.

đ) Kế thừa thành tựu nghiên cứu và triển khai về PPDH và GD nhằm phát triển PC và NL của học sinh ở trong nước và thế giới

Xu thế chuyển đổi từ mục tiêu giáo dục tập trung vào nội dung sang mục tiêu giáo dục tập trung vào NL đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm đầu của thế kỉ XXI. Kèm theo đó là những tư tưởng và PPDH và GD mới, trong đó có quan niệm phương pháp không chỉ là cách thức GD mà còn là nội dung GD. Để có NL HS không chỉ học nội dung khoa học mà còn phải học phương pháp làm việc, do đó việc thể hiện phương pháp học của HS vừa là một nội dung HS cần học, vừa là cách thức để HS học.

Nhiều phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học tích cực đã được truyền bá vào nước ta gần đây như: phương pháp dạy học kiến tạo, phương pháp học nhóm, phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp bàn tay nặn bột… Những

PPDH gắn với các tình huống dạy học cụ thể được gọi là các kĩ thuật dạy học (được hiểu là các kĩ thuật dùng để giáo dục nói chung) đã được đề cập đến trong nhiều tài liệu tập huấn GV như: học bằng dự án, học trên góc học tập, học theo hợp đồng, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật khăn trải bàn, động não, đọc tích cực, viết tích cực, trình bày một phút, chúng em biết 3, KWL, đặt câu hỏi, đóng vai,…

GV có thể tham khảo tại Phụ lục: Một số PP, kĩ thuật DH nhằm phát triển PC, NL HS kèm theo mô-đun 2.0.

Ví dụ về dạy học kiến tạo về câu ghép ở lớp 5: 1) GV đưa ra tình huống yêu cầu HS nói câu giải thích nguyên nhân của một sự việc, nói câu nêu điều kiện để thực hiện một sự việc; 2) GV hướng dẫn HS phân tích mỗi câu đã nói xem câu gồm có mấy sự việc, các sự việc có quan hệ với nhau thế nào, từ nào thể hiện mối quan hệ đó; 3) GV liệt kê những đặc điểm của những câu vừa phân tích (câu nêu nhiều sự việc, các sự việc trong câu có mối quan hệ nhân quả , quan hệ điều kiện kết quả, mối quan hệ được thể hiện bằng cặp quan hệ từ vì – nên, nếu – thì. 4) GV cung cấp cho HS khái niệm về câu ghép bao gồm những dấu hiệu về thông báo và dấu hiệu hình thức cấu tạo (ghi nhớ có trong SGK). 5) GV đưa ra các tình huống giao tiếp để HS dùng câu ghép diễn đạt trong các tình huống giao tiếp đó (nói lời giải thích vì sao em đi học muộn, nói về điều kiện để em được cấp thẻ đọc sách ở thư viện trường …)

Ví dụ về phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề trong dạy viết bài văn miêu tả con vật ở lớp 4: 1) Nhận biết vấn đề: mỗi HS sẽ giới thiệu về con vật nuôi em yêu thích ở nhà em để cho các bạn trong lớp cũng thấy yêu thích con vật đó (miieeu tả con vật nuôi). 2) Xác định giới hạn của vấn đề: con vật nuôi ở nhà em (chó, mèo, gà, trâu, ngựa …). 3) Xác định những việc làm để giải quyết vấn đề: quan sát và ghi lại những điểm nổi bật về hình dáng, hoạt động của con vật; (sắp xếp những điều quan sát được thành dàn ý bài văn : phần mở bài giới thiệu con vật, phần thân bài tả hình dáng, hoạt động, tính nết của con vật, phần kết bài nói về ích lợi của con vật và tình cảm, mong muốn của em dành cho nó). 4) Viết bài văn tả con vật nuôi em yêu thích theo dàn ý đã lập, trình bày bài viết có cả hình ảnh để bài văn hấp dẫn hơn (có thể vẽ con vật mình tả vào bài viết). 5) Chuyển bài viết cho bạn để hỏi ý kiến xem bạn có thấy con vật nuôi của em đáng yêu không?

Ví dụ về kĩ thuật học trên góc học tập môn Tiếng Việt ở lớp 3: 1) Nêu nhiệm vụ học tập: Mỗi HS chọn một cuốn sách nói về gia đình trong tủ sách của lớp đặt ở góc học tiếng Việt để đọc rộng. 2) HS đọc sách đã chọn. 3) HS ghi chép vào phiếu đọc sách những thông tin đã đọc được. 4) HS chia sẻ với bạn những điều em thấy thú vị trong cuốn sách đã đọc dựa trên ghi chép ở phiếu đọc sách.

Những phương pháp và kĩ thuật nói trên đã và đang thực hiện ở nhà trường phổ thông với tư cách là những cách thức dạy học theo CT, SGK hiện hành và đã góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực về chất lượng đào tạo của môn Tiếng Việt.

Những phương pháp, kĩ thuật này vẫn tiếp tục thực hiện trong dạy học môn Tiếng Việt theo CT và SGK mới.

Post a Comment

Previous Post Next Post